Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật dân sự 2015

Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật dân sự 2015 cụ thể như thế nào? Khi Tòa án ra quyết định tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không? Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là bao lâu? Dưới đây công ty thám tử Hoàn Cầu sẽ giải đáp vấn đề này một cách chi tiết nhất theo quy định Bộ luật dân sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đang có giá trị hiện hành.

Giao dịch dân sự vô hiệu là một trong những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, do đó trước khi tiến hành ký kết một hợp đồng hoặc tiến hành một giao dịch nào đó thì các chủ thể cần tìm hiểu cụ thể các vấn đề liên quan để tránh vô hiệu hợp đồng, làm ảnh hưởng một cách trực tiếp đến công việc của mình.

I. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Khi nào giao dịch bị vô hiệu?

Giao dịch dân sự vô hiệu là những giao dịch (bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương) vi phạm quy định pháp luật về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, vi phạm về ý chí tự nguyện tham gia giao dịch, vi phạm vào điều cấm của luật, vi phạm đạo đức xã hội, và vi phạm về hình thức của giao dịch.

Điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật:

Tại Điều 117 và 122 Bộ luật dân sự 2015 quy định, để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật thì phải đáp ứng được những điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

Tất cả chủ thể tham gia giao dịch phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với loại hình giao dịch đó thì mới có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Khi một người mới chỉ 10 tuổi mà đi mua một chiếc xe máy cũ thì giao dịch mua bán này nếu bị phát hiện và có người yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì việc mua bán đó sẽ bị vô hiệu. Bởi vì người mua chưa đủ năng lực hành vi dân sự, mà việc mua bán này phải do người đại diện hoặc người giám hộ thay mặt thực hiện.

Hoặc trong trường hợp một người mắc bệnh tâm thần dẫn đến mất năng lực hành vi dân sự mà đi mua một chiếc xe đạp cũ cũng sẽ bị coi là vô hiệu, bởi vì giao dịch này phải do người đại diện hoặc người giám hộ thực hiện.

Tóm lại, người chưa đủ năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự chỉ được tự mình tham gia các giao dịch phục vụ vấn đề thiết yếu của họ, còn những giao dịch khác phải do người đại diện hoặc người giám hộ thực hiện.

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

Trong pháp luật dân sự, luật pháp luôn đề cao vấn đề thỏa thuận giữa các bên tham gia, và yếu tố tự nguyện là một trong những vấn đề quan trọng nhất của giao dịch dân sự, nếu một trong các bên tham gia mà bị đe dọa, ép buộc hoặc lừa dối thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu.

Ví dụ: Khi một bên ép buộc bên khác phải ký vào hợp đồng vay tiền giá trị lớn hơn so với số tiền vay trên thực tế, nếu không ký hợp đồng này thì sẽ bị bên còn lại tấn công vũ lực. Trong trường hợp này, chủ thể bị ép buộc có thể ký kết hợp đồng vay tiền để tránh làm tổn hại đến sức khỏe của mình, sau đó thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vay tiền này là vô hiệu do bị ép buộc.

Trong trường hợp mức độ ép buộc nghiêm trọng thì bên chủ thể bị ép buộc có thể làm đơn tố giác tội phạm đến cơ quan chức năng để truy cứu trách nhiệm hình sự tội cưỡng đoạt tài sản.

Người ta thường hay nói: “Việc dân sự cốt ở các bên”, thông qua đó có thể thấy được rằng, trong mối quan hệ dân sự thì điều quan trọng nhất là sự tự nguyện của các bên tham gia, do vậy pháp luật thường quy định thêm vấn đề “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” nhằm mục đích tôn trọng quyết định, lựa chọn của các chủ thể tham gia gia dịch.

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Trong một hợp đồng dân sự thông thường sẽ không có phần mục đích của giao dịch, mà phần lớn tập trung vào quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, phạt vi phạm hợp đồng, thời gian – quy trình thực hiện công việc, thanh toán,… Ít có trường hợp nào hợp đồng ghi mục đích cua hợp đồng này là gì.

Tuy nhiên, nếu xét thấy việc giao kết hợp đồng này mà có mục đích (công việc thực hiện hoặc kết quả/ hậu quả của công việc sau khi thực hiện) mà vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội thì cũng sẽ bị vô hiệu.

Ví dụ: 2 doanh nghiệp tham gia ký kết một thỏa thuận với mục đích là ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường thì đó là một giao dịch bị vô hiệu, bởi vì mục đích của thỏa thuận này vi phạm điều cấm của Luật theo quy định tại các điều 11 và 12 Luật cạnh tranh 2018.

Đối với hình thức vi phạm này, ngoài việc bị tuyên bố giao dịch vô hiệu ra thì các chủ thể tham gia thỏa thuận này còn bị chế tài xử phạt theo quy định của Luật cạnh tranh, mức xử phạt cao nhất đối với hành vi này là phạt tiền “10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm” 1.

d) Hình thức của giao dịch dân sự đó phải tuân thủ quy định pháp luật

Hình thức của giao dịch dân sự cũng là một yếu tố quan trọng để quyết định có bị vô hiệu hay là không. Trong một số trường hợp yêu cầu hình thức giao dịch phải được

Tại khoản 1 Điều 119 BLDS 2016 quy định, giao dịch dân sự có thể được thực hiện bằng các hình thức khác nhau như: Bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, tùy theo từng văn bản luật chuyên ngành yêu cầu hình thức nào phải được lập thành văn bản thì phải được lập thành văn bản, hoặc phải công chứng/ chứng thực thì phải công chứng/ chứng thực thì giao dịch đó mới có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Hợp đồng mua bán xe, mua bán nhà đất, phải được lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực thì mới có hiệu lực pháp luật, bởi vì đây là giao dịch liên quan đến tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên buộc phải công chứng/ chứng thực.

Hoặc trong hợp đồng cho vay tín chấp thì thỏa thuận về việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có xác nhận của tổ chức chính trị – xã hội bảo đảm bằng tín chấp về điều kiện, hoàn cảnh của bên vay vốn.

Như vậy, trên đây là 4 điều kiện tổng thể để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật, vi phạm một trong 4 điều kiện trên thì sẽ bị vô hiệu, trừ các trường hợp đặc biệt khác.

II. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Tại các điều từ 123 – 129 Bộ luật dân sự 2015 quy định các trường hợp giao dịch bị xem là vô hiệu như sau:

1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Khi một giao dịch mà vi phạm điều cấm của luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội thì sẽ bị vô hiệu. Trong trường hợp này ngoài việc tuyên bố vô hiệu ra thì các chủ thể tham gia còn có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc thậm trí là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Điều cấm của luật được hiểu một cách đơn giản là những gì mà pháp luật cấm không được phép làm. Theo nguyên tắc công dân chỉ được làm những gì mà pháp luật không cấm, theo đó những gì pháp luật đã cấm thì không được làm.

– Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

– Khi các bên tham gia thỏa thuận một giao dịch giả tạo nhằm mục đích che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch giả tạo đó sẽ bị vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu đó vẫn có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Khi 2 bên tiến hành thủ tục mua bán nhà đất nhưng lại thỏa thuận là hợp đồng tặng cho bất động sản nhằm mục đích trốn thuế đối với Nhà nước thì trong trường hợp này được xác định như sau:

+ Hợp đồng tặng cho bất động sản là hợp đồng giả tạo, do đó sẽ bị tuyên vô hiệu.

+ Hợp đồng mua bán nhà đất là hợp đồng bị che giấu, do đó hợp đồng này vẫn có hiệu lực pháp luật, các bên tham gia vẫn có quyền và nghĩa vụ “giao tiền – nhận nhà” như đã thỏa thuận.

– Trường hợp các bên tham gia xác lập một giao dịch dân sự giả tạo nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ 3 thì giao dịch đó bị vô hiệu.

Ví dụ: Khi 2 bên mua bán nhà đất, giá trị thực tế của bất động sản đó tại thời điểm giao dịch là 5 tỷ đồng. Tuy nhiên các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng mua bán giá trị của bất động sản là 2 tỷ nhằm mục đích đóng thuế ít hơn. Như vậy, trong trường hợp này được xác định như sau: Hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ (nghĩa vụ đóng thuế) với bên thứ 3 (bên thứ 3 là nhà nước). Do đó sẽ bị tuyên vô hiệu.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện

– Trường hợp giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu.

Ví dụ: Một người bị bệnh tâm thần dẫn đến mất năng lực hành vi dân sự muốn mua một chiếc tivi, nếu chủ cửa hàng điện máy mà bán cho người này một chiếc tivi thì giao dịch mua bán đó sẽ bị vô hiệu. Trong trường hợp này, giao dịch đó phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ thực hiện.

Các trường hợp không bị vô hiệu:

– Trường hợp người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự tự mình thực hiện những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu thiết yếu sinh hoạt hàng ngày của họ thì không bị vô hiệu.

Ví dụ: Một người bị mất năng lực hành vi dân sự mà tự mình đi mua một cây bàn chải đánh răng hoặc mua một đôi dép thì giao dịch này không bị vô hiệu.

– Trường hợp giao dịch đó chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ thì không bị vô hiệu.

Ví dụ: Hành vi tặng quà hoặc tài trợ cho những chủ thể nêu trên mà không yêu cầu họ phải làm bất kỳ một việc gì để đáp lại hành vi tặng quà, tài trợ đó thì đó là một giao dịch không bị vô hiệu.

– Trường hợp giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Vào thời điểm giao dịch mua bán tài sản không phải đăng ký (xe đạp hoặc tivi, tủ lạnh, bàn ghế…) mà A chưa thành niên, mặc dù giao dịch này bị xem là vô hiệu nhưng chưa có ai yêu cầu tuyên bố vô hiệu, đến một năm sau thì A đã thành niên và A xác nhận rằng giao dịch mua bán trước đó là có hiệu lực thì lúc này, giao dịch đó vẫn có hiệu lực pháp luật mà không bị vô hiệu.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.

Ví dụ: A và B ký kết một hợp đồng dihcj vụ

2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

– Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

+ Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Ví dụ: Hình thức lừa dối trong giao dịch dân sự này thường thấy trong việc gửi tiền tiết kiệm ở ngân hàng nhưng lại bị hô biến thành khoản tiền mua bảo hiểm. Trong hợp đồng này cũng có thể là một hình thức lừa dối trong giao dịch dân sự, do đó người vô tình mua phải bảo hiểm có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó bị vô hiệu, hoàn trả lại những gì mà ngân hàng/ bảo hiểm đã nhận trước đó.

Tuy nhiên trên thực tế, để chứng minh một giao dịch dân sự có phải là lừa dối hay không là rất khó, bởi phải chứng minh được bên kia có cố ý hay là không, trong khi đó bên kia thì luôn khẳng định từng câu, từng chữ trong hợp đồng đều đều cập đến vấn đề này.

+ Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự được hiểu đơn giản là Bên A (hoặc thông qua bên thứ 3) uy hiếp bên B phải thực hiện một giao dịch, nếu không thực hiện giao dịch đó thì có thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Trên thực tế, hành vi đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự tuy ít, nhưng không phải là không có. Tuy nhiên, việc bên bị cưỡng ép yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu là rất ít hoặc không có, bởi phía bên bị cưỡng ép thường là bên yếu thế trong một vấn đề tế nhị mà họ chấp nhận chịu thiệt trong một giao dịch nhỏ để đạt được vấn đề lớn hơn đối với họ.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Ví dụ: Tại thời điểm giao dịch mà một bên bị chuốc thuốc mê dẫn đến mất nhận thức để phân biệt được tốt xấu, lợi hại, quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì khi tinh thần tỉnh táo có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.

Lưu ý, khi một người do uống quá nhiều rượu bia dẫn đến say xỉn, mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình nhưng nếu hành vi của người này mà gây ra thiệt hại cho người khác thì vẫn phải bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

Trường hợp một người A cố tình nài ép một người B uống rượu bia hoặc chất kích thích khác dẫn đến tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà khi B thực hiện một hành vi gây ra thiệt hại cho người C thì người A này phải bồi thường thiệt hại cho C.

Việc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình tại thời điểm giao dịch có nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do chất kích thích hoặc các yếu tố khách quan khác, nếu như chứng minh được việc tại thời điểm giao dịch đó mà một trong các bên không nhận thức hoặc không làm chủ được hành vi của mình thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu.

Trên thực tế hiện nay, việc ký kết hợp đồng trên bàn nhậu diễn ra rất phổ biến, việc xem xét quyền và lợi ích hợp của của mỗi bên đều được các bên thỏa thuận từ trước, vấn đề ăn nhậu và ký kết hợp đồng chỉ mang tính chất xã giao, do đó sau khi đã ký kết hợp đồng trong trường hợp này thì không thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch bị vô hiệu, trừ khi chứng minh được việc bàn bạc, thỏa thuận quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được thực hiện trong quá trình ăn nhậu, đồng thời chứng minh được lỗi do một bên cố tình nài ép, chuốc uống rượu bia làm cho một bên lâm vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự đó phải tuân thủ quy định về hình thức thì giao dịch đó phải tuân thủ, nếu không tuân thủ theo hình thức thì sẽ bị vô hiệu, cụ thể như sau:

– Trường hợp pháp luật yêu cầu giao dịch đó phải được lập thành văn bản, nhưng các bên khi tiến hành giao dịch mà không có hợp đồng bằng văn bản mà chỉ bằng lời nói thì giao dịch đó bị vô hiệu. Trừ trường hợp 1 hoặc các bên đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu Tòa án công nhận giao dịch đó có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Pháp luật quy định hợp đồng vận chuyển hàng hóa phải được lập thành văn bản, tuy nhiên các bên khi thỏa thuận về vận chuyển hàng hóa mà nhưng không lập thành văn bản mà chỉ bằng lời nói thì giao dịch này bị vô hiệu.

Trong trường hợp bên vận chuyển đã vận chuyển được 2/3 quảng đường, hoặc bên giao vận chuyển đã thanh toán được 2/3 số tiền của giao dịch thì một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án công nhận giao dịch đó là có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp pháp luật quy định giao dịch đó phải được lập thành văn bản và được công chứng chứng thực, nhưng các bên không lập thành văn bản, hoặc có lập hợp đồng bằng văn bản nhưng không công chứng/ chứng thực thì giao đồng/ giao dịch đó bị vô hiệu. Trừ trường hợp 1 trong các bên đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ của mình.

Ví dụ: Pháp luật quy định việc mua bán xe máy phải được lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực, tuy nhiên các bên chỉ làm hợp đồng mua bán xe máy nhưng không đi công chứng/ chứng thực thì hợp đồng mua bán xe máy đó bị vô hiệu.

Trường hợp bên bán đã giao xe và bên mua đã nhận xe và thanh toán đủ số tiền như thỏa thuận thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng này là có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên đối với những giao dịch liên quan đến tài sản phải đăng ký thì ngay sau đó các bên phải tiến hành các thủ tục đăng ký theo quy định pháp luật.

III. Các câu hỏi về giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật dân sự 2015

1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không?

– Khi một giao dịch dân sự bị vô hiệu thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, trừ trường hợp giao dịch dân sự đó bị vô hiệu một phần thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong phần không bị vô hiệu vẫn đó vẫn có hiệu lực thi hành.

– Khi một giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, đồng thời có nghĩa vụ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận trước đó, trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì quy đổi sang tiền để hoàn trả.

Ví dụ: A và B tiến hành mua bán một chiếc xe oto trị giá 3 tỷ và mới chỉ đặt cọc 200 triệu. Quá trình mua bán, đặt cọc đó 2 bên không làm hợp đồng mua bán mà chỉ thỏa thuận bằng miệng thì khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, A phải trả lại cho B số tiền nhận cọc là 200 triệu đã nhận trước đó. Trường hợp B đã nhận xe thì phải giao trả xe lại cho A.

– Trường hợp giao dịch bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nhưng nếu có một bên thứ 3 ngay tình thì bên thứ 3 ngay tình này có quyền về tài sản và lợi tức từ giao dịch đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Ví dụ: A ký hợp đồng nhận cọc bán nhà cho B, tuy nhiên sau đó A lại bán căn nhà đó cho C. Quá trình A và C mua bán có ra văn phòng công chứng làm thủ tục sang tên theo đúng quy định pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp giữa A và B thì C là bên thứ 3 ngay tình, lúc này C vẫn có quyền sở hữu căn nhà đó hợp pháp mà A và B không có quyền đòi lại. Trường hợp C cho thuê căn nhà đó là thu lời từ việc cho thuê nhà số tiền 100 triệu thì C có quyền hưởng số tiền này.

– Trường hợp giao dịch bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu, nhưng nếu một trong các bên có lỗi gây ra thiệt hại cho bên khác thì bên gây ra lỗi đó phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại.

2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là bao lâu?

– Đối với giao dịch dân sự giả tạo và giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Trong trường hợp các bên tham gia thực hiện một giao dịch giả tạo để che dấu một giao dịch dân sự khác, hoặc giao dịch mà vi phạm điều cầm của luật, trái đạo đức xã hội thì không bị khống chế về thời hiệu, nếu bị phát hiện thì các chủ thể tham gia không chỉ bị tuyên bố giao dịch vô hiệu, mà còn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc thậm trí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự do vi phạm điều cấm của luật.

– Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 125, 126, 127, 128 và 129 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu là 2 năm kể từ ngày biết hoặc phải biết giao dịch đó là là vô hiệu.

Sở dĩ pháp luật quy định về việc các bên biết hoặc phải biết giao dịch bị vô hiệu là bởi vì đây là vấn đề dân sự liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên thông qua thỏa thuận. Do đó quy định này cũng nhằm mục đích gắn trách nhiệm cho các chủ thể tham gia phải quan tâm, tìm hiểu về sự việc của mình.

Khi hết thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu mà người có quyền, nghĩa vụ liên quan không là đơn yêu cầu thì giao dịch đó có hiệu lực pháp luật.

– Vi dụ thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

Ngày 13/05/2023 A và B đi nhậu chung mà A bị B nài ép chuốc cho say sỉn dẫn đến mất ý thức, sau đó A đồng ý bán cho B chiếc xe máy mình đang đi giá 10 triệu đồng (thực tế là hon 50 triệu) thì khi tỉnh táo lại, A có nghĩa vụ phải yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Nếu quá ngày 13/05/2025 (quá thời hiệu 2 năm) mà A không có yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu thì giao dịch đó được xem là có hiệu lực pháp luật.

Trên đây là các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo Bộ luật dân sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 mới nhất và thời hiệu, ví dụ cụ thể về giao dịch bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu, hu vọng sẽ giúp các bạn khi tham gia một giao dịch nào đó trong cuộc sống, kinh doanh, thương mại sẽ không bị vô hiệu, chúc các bạn thành công!

Thực hiện: Thám tử Biên Hòa

Tham vấn: Thám tử TPHCM

5/5 - (4 bình chọn)
error: Content is protected !!
Gọi thám tử tư 0967185789